Giải mã Web 2.0 là gì, những nền tảng tạo tạo nên web 2.0
Một trong những thuật ngữ để nói về thế giới web hiện tại là web 2.0. Vậy web 1.0, web 2.0 là gì và sự khác nhau giữa web 1.0 và web 2.0 là gì. Sau đây, Pho Tue Software Solutions chia sẻ về chuyển giao thế hệ lớn nhất trên nền tảng web: cuộc chuyển giao từ web 1.0 sang web 2.0.
Một trong những thuật ngữ để nói về thế giới web hiện tại là web 2.0. Vậy web 1.0, web 2.0 là gì và sự khác nhau giữa web 1.0 và web 2.0 là gì. Sau đây, Pho Tue Software Solutions chia sẻ về chuyển giao thế hệ lớn nhất trên nền tảng web: cuộc chuyển giao từ web 1.0 sang web 2.0.
Web 2.0 là gì?
Cụm từ “Web 2.0” được sử dụng lần đầu tiên bởi Darcy DiNucci vào tháng 1 năm 1999, năm cuối cùng của thiên niên kỉ trước. Tuy nhiên, cụm từ mang thiên hướng dự đoán hơn là định nghĩa hay cách triển khai về Web 2.0. Tại thời điểm đó, việc có thể ngay lập tức xem một bức ảnh vừa mới được chụp ở đâu đó chỉ bằng một chiếc màn hình 5 inch trên tay, vẫn chỉ là điều xuất hiện trên những bộ phim viễn tưởng. Việc dự đoán về một tương lai nơi con người tham gia vào các xã hội ảo trên mạng, việc tin tức đến tay người dùng bằng bất cứ thiết bị nào họ có ngay lúc đó đã được các nhà khoa học và nghiên cứu hướng tới. Và để đặt tên cho thế hệ Web đáp ứng được những tương lai đó, thế hệ Web 2.0 được sử dụng.
Nói ngắn gọn, Web 2.0 là gì thì Web 2.0 dùng để chỉ những website mà người dùng có thể tương tác với những người dùng khác và với chính website đó. Theo như cách nói này, nếu như chúng ta thử đặt bất cứ một website nào đó mà chúng ta truy cập hiện tại, thì website đó hoàn toàn được coi là website của thế hệ 2.0.
Thật ra, không có khái niệm nào chỉ rõ Web 2.0 là gì, hay Web 2.0 là những trang web sử dụng những thứ gì cả. Web 2.0 không có một “công thức” cụ thể, mà chỉ dùng để nói đến cách hoạt động và mục tiêu của các trang web đó. Vì thế, rất nhiều các định nghĩa về Web 2.0 tránh việc sử dụng cách viết “Web 2.0 là …”.
Vậy thế hệ Web 1.0 bây giờ có còn tồn tại không, như việc 2G, 3G, 4G, 5G cùng tồn tại vậy? Câu hỏi này sẽ có câu trả lời tùy thuộc vào góc nhìn của từng người. Mặc dù vậy, một điều không thể bàn cãi là Web 2.0 được xây dựng trên nền tảng của Web 1.0. Chúng ta cùng quay trở lại về Web 1.0 để tìm hiểu xem việc thế giới web thay đổi như thế nào trong 20 năm qua.
Đôi điều về Web 1.0
Cũng giống như việc đặt tên cho các thế hệ của các công nghệ khác: khi có số 2 thì mới gọi những thứ cũ là 1. Web 1.0 dùng để chỉ những website được thiết kế trước đây mà không có tương tác từ người dùng. Đến đây, một câu hỏi sẽ xuất hiện: Vậy tương tác là gì? Click vào một link trên trang web có gọi là tương tác không? Gửi một tin nhắn có phải là tương tác không? Chính vì lí do này nên không hề có một biên giới rõ ràng nào giữa Web 1.0 và Web 2.0 cả. Ngay cả việc sử dụng cụm từ Web 2.0 cũng gây ra rất nhiều tranh cãi. Như việc Tim Berners-Lee nói về “Web 2.0”, mục đích của “Web 2.0” cũng chính là mục đích của Web. Vì vậy, để có một cái nhìn khách quan hơn, từ đây, chúng ta sẽ nhắc đến “Web 1.0” là những thứ được coi là nền để phát triển “Web 2.0”, với những công nghệ được triển khai trên chính nền 1.0 đó để tạo nên thế giới web bây giờ.
Những công nghệ tạo nên Web 2.0
Sau đây, chúng ta sẽ cùng đi qua chiều dài lịch sử của web, để xem lại những gì web đã thay đổi, những gì web đã giữ lại đến bây giờ, hay những thứ gì đã bị bỏ lại trong lịch sử đó.
HTML, CSS và trình duyệt
Trước tiên, khi truy cập vào một trang web bằng trình duyệt, web server sẽ gửi đến trình duyệt trên máy tính một trang web bằng HTML. Trình duyệt sẽ nhận và dịch trang HTML, sau đó hiển thị trang web trên cửa sổ của trình duyệt.
Người dùng hầu như chỉ thực hiện được một số hành động nhất định với trang web như là nhấn vào những đường link thường được gạch chân và có màu xanh. Việc này cũng giống như chúng ta có một chồng giấy ở trên bàn và đọc những trang giấy đó vậy. Thêm nữa, những trình duyệt khác nhau còn có thể không hiển thị hoàn toàn những thông tin mà HTML có.
Vào thời đó, một trong những logo phổ biến trên những trang web đó là “best viewed in Netscape” hoặc “best viewed in Internet Explorer”.
CSS bắt đầu được sử dụng để sắp xếp nội dung hiển thị trên Internet Explorer phiên bản 3.0. Và từ bản thứ 4 phát hành vào năm 1997 trở đi, Internet Explorer thống trị trình duyệt web cho đến khi trở tụt xuống vị trí thứ 2 vào năm 2012.
World Wide Web Consortium hay W3C là một tổ chức được thành lập có nhiệm vụ chính là đưa ra các chuẩn cho Internet và đặc biệt là World Wide Web và các thành phần liên quan như HTML, CSS,… Có một tổ chức bảo đảm trật tự, những công nghệ mới được đưa vào các trình duyệt trở nên dễ dàng hơn.
W3C, một trong những tổ chức định hình Web hiện tại
Client-side scripting, công nghệ quan trọng tạo nên Web 2.0
Sau việc chuẩn hóa đó, người dùng bây giờ yêu cầu nhiều hơn từ những trang web: xem truyền hình trực tiếp, xem phim, chơi game,… Vì vậy, phải có một công nghệ nào đó cho phép việc trao đổi giữa trình duyệt người dùng và server. Từ đó, Client-side scripting được tích hợp vào các trang web, thực hiện các hành động với trang web khi chúng ta mở trang web đó trên trình duyệt. Thay vì chỉ giới hạn với những đường link, giờ đây chúng ta có thể tương tác với nhiều thứ hơn như nút bấm (Button), trình phát video,... Tính tương tác bắt đầu được đẩy lên một thế hệ mới, mà sau này chính là một trong những mục tiêu chủ lực của nhiều trang web: tập trung thiết kế để tăng tương tác của người dùng, đương nhiên là thông qua các client-side scripting.
Hiện tại, client-side scripting phổ biến nhất là Javascript.
Adobe Flash và Microsoft ActiveX, hai công nghệ đã bị bỏ lại
Hình thành xã hội ảo: Blog, Forum và Mạng xã hội
Khi thời gian tiếp cận với Internet và web nhiều hơn do mạng Internet bắt đầu phổ biến với tốc độ cao hơn trước, người dùng bắt đầu muốn chia sẻ những nội dung, thông tin và kiến thức mình có. Một trang web dạng nhật kí được ra đời, đó chính là blog. Blog giúp người dùng có thể đăng lên những thứ mà chính người dùng viết, đưa người dùng trở thành người sáng tạo nội dung (content creator). Những người khác có thể vào trang blog của một người dùng khác. Một trong những blog nổi tiếng nhất thời những năm 2005-2008 đó là Yahoo! 360o của Yahoo!
Yahoo! 360o (https://snowyimpressions.wordpress.com/tag/yahoo-360/)
Khác với cách tiếp cận của Blog, một trang web nhắm đến việc tranh luận giữa các thành viên là forum. Forum được tạo ra, nhằm tập hợp một số người dùng có cùng sự quan tâm đến một vấn đề nào đó, và tranh luận trên các thread (hay còn gọi là topic) bằng các đoạn văn bản.
Sau đó, người dùng lại yêu cầu được cá nhân hóa bản thân hơn trên Internet. Sự trộn lẫn hai dạng Blog và Forum tạo ra một số dạng mạng xã hội như Facebook và Twitter,… Người dùng bây giờ có thể tạo ra một bản thân “ảo” trên chính các mạng xã hội, có khả năng xem thông tin của những người khác, có khả năng cập nhật thông tin nhanh chóng, có khả năng bàn luận về một chủ đề qua các Post. Với những bức ảnh có thể được upload nhanh chóng hơn so với trước đây, việc người dùng có thể nhận được một lượng thông tin rất lớn chỉ với một thiết bị được kết nối internet.
Giao diện mới của Facebook
Lưu ý rằng, mạng xã hội là một khái niệm rất rộng, bao trùm rất nhiều các nền tảng mà chúng ta hay sử dụng hàng ngày. Từ các mạng xã hội tập trung về mối quan hệ giữa người dùng với người dùng như Facebook, các mạng xã hội trao đổi thông tin cho một mục đích nhất định như LinkedIn, cho đến các mạng xã hội chia sẻ video như Youtube hay Tiktok.
Các nhà phát triển nền tảng bây giờ không còn tập trung quá nhiều vào việc sáng tạo nội dung như trước, thay vào đó tập trung nhiều hơn vào các mặt tăng số lượng người dùng như tương tác, kết nối người dùng hay khả năng tiếp cận thông tin hơn. Sự bùng nổ của mạng xã hội dẫn đến việc mạng xã hội là một trong những thành phần quan trọng nhất của Web 2.0.
Web application
Thời gian người dùng dành cho web nhiều hơn, đồng nghĩa với việc các nhà phát triển muốn tích hợp dịch vụ của mình trên web nhiều hơn. Các web application hay web app được xây dựng để có thể chạy hoàn toàn trên nền tảng web, điều này khác hẳn với các app truyền thống trên desktop. Hơn nữa Web application có lợi thế hơn về mặt triển khai, cập nhật chương trình và tính năng mới. Đặc biệt, một trong những tính năng quan trọng bậc nhất - và hoàn toàn bỏ xa các app truyền thống – đó là khả năng chạy trên nhiều nền tảng. Hầu hết các mạng xã hội hiện nay đều có Web app để chạy ngay trên trình duyệt của rất nhiều loại thiết bị.
Ranh giới giữa Website và Web application hiện tại rất khó phân định – cũng như Web 1.0 và Web 2.0
Smartphone và Web 2.0
Một trong những nhược điểm của PC/laptop đó là người dùng không thể sử dụng 24/24 giờ được. Từ đó, smartphone dần dần được nâng cấp và thay thế các công việc mà trước đây chỉ PC/laptop mới có thể làm được. Với smartphone, người dùng hoàn toàn có thể truy cập Internet, có thể lướt Facebook, có thể check-in mà không cần tìm một cái bàn để đặt laptop nữa. Đương nhiên, các nhà phát triển nền tảng không thể bỏ qua cơ hội với loại thiết bị luôn mang theo người này. Smartphone app và cả app trên web được phát triển và đưa đến người dùng để người dùng tiếp cận nền tảng ở bất cứ đâu và bất cứ lúc nào. Thế giới bây giờ được chia ra làm hai loại xã hội: Xã hội thật và xã hội ảo. Thông qua Web. Smartphone trở thành một trong những “cánh cửa” được người dùng sử dụng nhiều nhất để vào Web, mà bây giờ được gọi là thế hệ Web 2.0.
Smartphone app cũng là một phần trong thế hệ Web 2.0 ngày nay
Cuối cùng, để giải đáp câu hỏi web 2.0 là gì, chúng ta có thể đưa ra một kết luận: Web 2.0 được sinh ra bởi nhu cầu của người dùng và cũng chính Web 2.0 thay đổi cả thói quen và cách sống của người dùng. Web 2.0 đồng thời cũng lập ra một xã hội không có khoảng cách vật lí, nơi mọi người có thể tham gia và đóng góp một phần của bản thân vào xã hội ảo.
Phạm Thị Quỳnh Dung
Pho Tue SoftWare Solutions JSC là Nhà Cung cấp dịch Trung Tâm Dữ Liệu, Điện Toán Đám Mây Và Phát Triển Phần Mềm Hàng Đầu Việt Nam. Hệ Thống Data Center Đáp Ứng Mọi Nhu Cầu Với Kết Nối Internet Nhanh, Băng Thông Lớn, Uptime Lên Đến 99,99% Theo Tiêu Chuẩn TIER III-TIA 942.
Leave a comment
Your email address will not be published. Required fields are marked *